Toyota Vigo – làn gió mới trong phân khúc thị trường do xe Hàn thống trị

Trong danh mục sản phẩm của Toyota, nhiều người đã chờ đợi những chiếc xe nhỏ, giá rẻ. Đây là phân khúc hướng đến đối tượng khách hàng “ăn chắc mặc bền” và phù hợp với thu nhập của nhiều người Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là điểm khác biệt khi hầu hết doanh số đều là mẫu xe i10 và Morning của Hàn Quốc thay vì xe Nhật. Sự xuất hiện của Wigo mang đến cho người dùng nhiều sự lựa chọn hơn.

Thiết kế tiện lợi

Wigo có kích thước nhỏ gọn, phù hợp với những khách hàng thường xuyên di chuyển quãng đường ngắn trên các tuyến phố mật độ giao thông cao. So với các đối thủ Hàn Quốc như Hyundai Grand i10, Kia Morning và Wigo gần như có kích thước tương đương nhau. Tổng chiều dài của xe là 3660 mm (ngắn hơn i10 và dài hơn morning), trục cơ sở dài nhất của đoạn này là 2455 mm.

Toyota Wigo thủy điện Hòa Bình.

Thiết kế ngay từ đầu Chiếc xe mang hình dáng đặc trưng của Toyota gần đây, với lưới tản nhiệt được mở rộng ở phía dưới. Tay lái được trang bị một dải crom tạo vị trí tốt nhất của xe. Đèn pha thiết kế không tinh tế nhưng phù hợp với các dòng xe đời thấp, không bóng và không đánh bóng. Cũng như các mẫu xe hạng A, Wigo không có đèn lái ban ngày, chỉ tích hợp đèn sương mù.

Ở phía sau xe, đèn hậu có tiết diện lớn, vuông vắn và chắc chắn chứ không phải là những đường nét mượt mà. Khi gương phản xạ phía sau và khe gió được tích hợp ở cùng một vị trí, thiết kế của đuôi xe phức tạp hơn so với sự đơn giản của đầu xe. Đèn phanh được tích hợp trên cánh gió sau. Cụm gương chiếu hậu chứa đèn báo rẽ.

Ngoại hình của Wigo hướng đến tính thực dụng, trang bị những gì cần thiết, không màu mè. Tuy nhiên, người sử dụng chỉ có thể mở cửa sau hoặc sử dụng chìa khóa cơ từ bên trong cabin thông qua một công tắc, và không thể sử dụng khóa mở trên cửa. Vali Wigo phải được mở từ cabin hoặc mở khóa bằng chìa khóa và khóa.

Khi bước vào cabin, phong cách thực dụng vẫn tồn tại. Bảng đồng hồ có màu đen được làm từ chất liệu nhựa tổng hợp da. Khu vực điều khiển trung tâm rất cổ điển, được trang bị cửa gió điều hòa hình chữ nhật và nút điều khiển hệ thống làm mát dạng xoay được thiết kế trên xe từ nhiều năm trước.

Điểm nổi bật của bảng đồng hồ là ở cụm màn hình cảm ứng có chất lượng khá tốt. Người dùng có thể phát wifi qua điện thoại hoặc bộ phát để sử dụng chức năng kết nối Internet trên màn hình. Chất lượng hình ảnh từ camera sau đến màn hình cao.

Hệ thống giải trí trên xe có đủ các kết nối công cộng và cổng kết nối HDMI để trích xuất hình ảnh từ thiết bị. Thiết bị ngoại vi, chẳng hạn như điện thoại, máy quay phim. Ngoài ra, một đầu DVD được bố trí phía sau màn hình hiển thị, tương tự như thiết kế của các mẫu xe Toyota hiện nay. Tuy nhiên, chất lượng âm thanh của hệ thống loa không cao và phù hợp với nhu cầu nghe nhạc cơ bản. Chất lượng phát nhạc của 4 loa dưới gầm xe hơi kém.

Nội thất Wigo 1.2 AT. Chất liệu chủ yếu là nhựa và mặt ngồi là nỉ.

Phiên bản cao cấp nhất của xe chỉ được trang bị ghế nỉ, trong khi các đối thủ cùng phân khúc trên thị trường sử dụng ghế da. Trang bị an toàn cơ bản của Wigo, với 2 túi khí cho hàng ghế trước và dây đai an toàn 3 điểm.

Thích hợp vận hành trong đô thị

Wigo được nhập khẩu về Việt Nam, trang bị động cơ 1.2, 4 xy-lanh, công suất 86 mã lực và mô-men xoắn cực đại 107 Nm, tương đương với các đối thủ. Những điều này chỉ ra rằng đối tượng mục tiêu thường di chuyển trong các khu vực đô thị với khoảng cách ngắn.

Chỉ cần kéo cần chỉnh ghế cơ, tựa lưng với tư thế lái phù hợp, người lái có thể bắt đầu hành trình tìm xe. Đường Vigo-Hứa Bình trên sông Hà Nội. Nới lỏng chân phanh, cần phanh, chỉnh số D, xe chuyển động chậm dần đều. Vô lăng trợ lực nhưng không quá nhẹ khi đánh lái bạn có thể cảm nhận được nhịp chuyển bánh trên vô lăng.

Toyota hatchback cho thấy khả năng tăng tốc mượt mà trong nước. Chân ga đáp ứng tốt từng bước chạy của người lái và không gây ra những va chạm đột ngột. Bạn của lái xe cũng phải khen ngợi khả năng tăng tốc của Wigo, mặc dù anh ấy rất thích mẫu Hyundai Grand i10.

Toyota Wigo trên đỉnh Đập Thủy điện Hòa Bình. – Ngõ hẹp và kích thước nhỏ của xe mới đi trên phố nhỏ đã thể hiện rõ lợi thế của nó, không gây mệt mỏi và khó lái xe. Wigo hộp số tự động được trang bị cảm biến lùi, xe thử nghiệm được kết nối với camera lùi nên việc ghép xe trong bãi xe rất dễ dàng. Hình ảnh hiển thị trên màn hình trên bảng điều khiển rất tốt.Sự linh hoạt và dễ sử dụng của trung tâm thành phố của Wigo đã để lại ấn tượng tốt cho thành phố. Vừa đỗ xe ở đó, tài xế có thể không ngần ngại chi tiền mua xe ngay, cũng giống như bạn bè trên báo khác, bởi họ cần một chiếc xe để “che mưa, che nắng”.

Tuy nhiên, kinh nghiệm đi đường dài có thể giúp người lái đánh giá đầy đủ hơn về xe. Đường trên đại lộ Thăng Long gồ ghề, không bằng phẳng, phía trên gầm cầu có nhiều gờ, có thể dùng để đánh giá hệ thống giảm xóc của ô tô. Khi phanh gấp ở tốc độ khoảng 60-70 km / h, hệ thống treo của xe ổn định và ổn định thân xe. Điều này là đủ cho một chiếc xe nhỏ có lẽ hầu hết được mua trên đường phố.

Động cơ 86 mã lực có sức kéo 107 Nm, sẽ bị hạn chế ở tốc độ cao. Bắt đầu từ ngưỡng khoảng 75 km / h, xe tăng tốc chậm và có nhiều khoảng lùi. Đạp chân ga đến vị trí sát mặt đất, động cơ gầm lên, kim đồng hồ đo tốc độ cố định và đèn báo Eco (tối ưu nhiên liệu) bật ra, nhưng xe chỉ từ từ đạt 90 km / h, 100 km / h và ổn định ở mức xấp xỉ Nó quay với tốc độ 2.900 vòng / phút. Với một chiếc ô tô, động cơ rất yếu nên không thể chờ tăng tốc được.

Cuối đại lộ Tanglang, con đường mới nối Huale và thị trấn Huaping vừa được hoàn thành, vỉa hè tráng lệ. Độ nhám và cho xe đi với vận tốc 80 km / h. Cảnh sắc hai bên đường đẹp mê hồn như chốn Tây Bắc, mang lại nhiều cảm hứng cho người lái, nhưng không phải cái gì cũng trọn vẹn. Có thể cảm nhận rõ ràng tiếng đường và tiếng động cơ trong khoang hành khách làm vỡ òa cảm xúc của người ngồi trên xe. Hành khách phía sau kêu “ồn ào”, dù vị trí ngồi khá rộng rãi nhưng với một người cao gần 1m8 thì rất thoải mái. Độ ồn trung bình trong khoang hành khách là 80 km / h, xấp xỉ 83 dB.

Làn gió mới xuất hiện trên thị trường

Sau hơn 20 năm phát triển tại Việt Nam, lượng xe của Toyota rất ít đã ảnh hưởng đến phân khúc thị trường này, dẫn đầu là xe Hàn. So với các đối thủ cùng cấp, Wigo thua kém về trang bị, lợi thế thương hiệu Nhật và máy móc nhập khẩu nguyên chiếc.

Khách hàng của Wigo hướng đến những người đi quãng đường ngắn trong trung tâm thành phố. , Người mua xe có những nhu cầu cơ bản nên đáp ứng tốt các đặc tính linh hoạt, thuận tiện khi lái và điều khiển. Tuy nhiên, với những người muốn đổi hướng gió và lái xe đường dài, Toyota hatchback lộ rõ ​​khuyết điểm của dòng xe nhỏ. Đây là vấn đề phổ biến với những chiếc xe nhỏ, vốn được thiết kế cho các khu đô thị và các chuyến đi ngắn.

Giá xe Wigo phiên bản cao nhất là 405 triệu USD, đắt nhất phân khúc nhưng chỉ đứng sau Hyundai King Grand i10 với doanh số 3 triệu. Đồng thời, tầng 345 triệu có thể là lựa chọn cho người chạy.

Tín hiệu ban đầu của Wigo rất khả quan, khi doanh số sụt giảm trong 5 ngày cuối tháng 9 vừa qua. Có 238 đơn vị, với trung bình hơn 47 sản phẩm mỗi ngày. Các mẫu xe hatchback Nhật Bản rõ ràng được hoan nghênh, nhưng nếu cầu vượt cung, vấn đề nhập khẩu nguyên chiếc có thể trở thành trở ngại.

Ngọc Tuấn Photography: Tian Thanh Luong Dung

You may also like

Leave a reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *